Chân Trời

 

Bộ Mặt Trái Đất

 

Bộ Mặt Trái Đất Văn Hóa Con Người

 

 Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt trái đất”. Câu đáp ca của ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống này có một ý nghĩa rất sâu xa, không phải vì lời khẩn nguyện này chứa đựng một niềm xác tín là chỉ có Thánh Thần Chúa mới là nguyên lý tối cao và là tác nhân chủ động trong việc “canh tân bộ mặt trái đất” nhờ Giáo Hội truyền bá phúc âm, mà còn vì câu này nói lên một ý nghĩa sâu xa huyền diệu của đối tượng cần phải được Thánh Thần Chúa “canh tân”, đó là “bộ mặt trái đất” nữa.

 

Phải chăng “Bộ mặt trái đất” là chính văn hóa con người?

 

Đúng thế. Nếu “từ khởi nguyên Thiên Chúa bắt đầu dựng nên trời đất” (Gen.1:1) thì có thể hiểu là từ ban đầu “Thiên Chúa là Cha toàn năng” đã dựng nên “muôn vật hữu hình và vô hình”, như tín điều đầu tiên của Kinh Tin Kính được Kitô hữu chúng ta vẫn tuyên xưng từ trước đến nay. Nếu “trời” là biểu hiệu cho “vật vô hình” thì “đất” là biểu hiệu cho “vật hữu hình”. Tuy nhiên, trong “muôn vật hữu hình” được dựng nên này, chỉ có tạo vật “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa” (Gen.1:27) mới thật sự là và xứng đáng là “bộ mặt trái đất” mà thôi. Con người là “bộ mặt trái đất”, tức là đại diện, là thay mặt cho “muôn vật hữu hình” trước nhan Thiên Chúa, Đấng đã đặt họ “làm chủ trái đất” (Gen.1:28). Bởi vì, theo phẩm vị và bản tính bẩm sinh của mình, họ được Đấng Tạo Hóa ban cho khả năng và quyền năng “nhân linh ư vạn vật”: khả năng “nhân linh ư vạn vật” của con người là luận biết và quyền năng “nhân linh ư vạn vật” của con người là tự do.

 

Thực tế cho thấy, chính nhờ khả năng và quyền năng “nhân linh ư vạn vật” này, con người đã thực sự là một tác nhân làm thay đổi hoàn toàn “bộ mặt trái đất”, bằng đời sống càng ngày càng văn minh của mình, với những phát minh mỗi ngày một tân tiến khôn lường và tiện nghi hết sức, làm nên biết bao nhiêu là kỳ công nhân tạo, đến nỗi, chính lịch sử cũng không ghi nhận kịp và tiên đoán nổi mức độ văn minh đang gia tốc phát triển này sẽ đi về đâu, thậm chí, đa số con người ngày nay cũng không thể nào ngờ được, không thể nào hưởng hết, không thể biết hết, không thể nào sử dụng thông thạo như một chuyên viên nếu không được huấn luyện đặc biệt v.v.

 

“Bộ mặt trái đất” chẳng những được văn minh loài người trang điểm diễm tuyệt đến chói ngời bề ngoài như thế, nó còn được con người “linh ư vạn vật” biến đổi sâu xa bằng chính văn hóa của họ nữa, để “bộ mặt trái đất” cũng được vinh dự mang bộ mặt nhân bản, không phải như một chiếc mặt nạ giả tạo tạm bợ, mà là một bộ mặt nhập thể, tương tự như trường hợp con người tạo vật trần gian được thực sự mang dung nhan của Thiên Chúa nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14). Thật ra, văn minh cũng là một hình thức văn hóa của con người, song nó không phải là chính văn hóa và là tất cả văn hóa, vì văn hóa là tất cả những gì con người sống động theo quan niệm làm người của mình ở một thời điểm và địa điểm nào đó; nó bao gồm cũng như được diễn tả hay biểu lộ ở nhiều và qua nhiều phương diện khác nhau, như phương diện xã hội (nhân sinh và tập tục), chính trị (thể chế và luật lệ), văn học (văn chương và khoa học), nghệ thuật (cảm nhận và biểu hiện), kỹ thuật (phát minh và tiện nghi), gia đình (yêu thương và sự sống), giáo dục (phẩm giá và nhân cách), kinh tế (lao động và sản xuất), truyền thông (liên lạc và giao tiếp) v.v.

 

Đúng thế, tuy không phải là yếu tố “là người” của con người, như bản tính tự nhiên tạo nên hữu thể con người, văn hóa cũng là bộ mặt của con người “linh ư vạn vật”, tức là tất cả những gì “làm người” của con người. Lịch sử cho thấy, chỉ con người mới có tiến bộ, mới tiến từ chỗ lạc hậu đến chỗ văn minh, từ chỗ ăn lông ở lỗ đến chỗ ăn sang mặc đẹp, từ chỗ sống theo luật rừng mạnh được yếu thua đến chỗ công bằng bác ái vị tha, từ chỗ mê tín dị đoan đến chỗ khoa học thực nghiệm, từ chỗ đa thê lắm thiếp đến chỗ một vợ một chồng, từ chỗ quân chủ chuyên chế đến chỗ dân chủ cộng hòa, từ chỗ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó đến chỗ chọn mặt gửi vàng, từ chỗ trọng nam khinh nữ đến chỗ nam nữ bình quyền, từ chỗ cầy sâu cuốc bẫm đến chỗ máy móc tăng gia năng xuất, từ chỗ làng mạc quê mùa mộc mạc đến chỗ thành thị phồn hoa đô hội, từ chỗ năm châu bốn bể xa cách đến chỗ gần gũi nhau hơn như cùng nhau sống trong một khu làng hoàn vũ (global village) v.v. Thế nhưng, tất cả những tiến bộ về mọi mặt của con người đó, từ thời tiền sử và thượng cổ đến thời khoa học kỹ thuật tối tân tiến trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ hai Kitô giáo hiện nay, con người đã thực sự tỏ ra mình càng “làm người”, đúng như bản chất của văn hóa đích thực, hay chưa?

 

Xét về mặt nổi, việc tiến bộ của con người trong việc càng ngày càng “làm người” hơn có thể bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16, với phong trào thám hiểm thế giới, một phong trào chẳng những đã giúp con người khám phá ra toàn diện “bộ mặt trái đất” của mình ở khắp nơi trên thế giới, mà còn đem văn minh Âu Châu, trong đó có cả văn hóa Kitô giáo, đi trang điểm “bộ mặt trái đất”. Việc tiến bộ trong việc “làm người” của con người kể từ phong trào thám hiểm thế giới này có thể được tóm trong chữ “quyền” và được diễn tả bằng bộ ba danh từ kép: quyền lực hay quyền năng (power), quyền hành hay quyền bính (authority) và quyền lợi hay quyền hạn (right).

 

Quyền lực hay quyền năng là tất cả những gì con người có thể thực hiện theo khả năng sinh hoạt tự nhiên của mình, đặc biệt về cả phương diện khoa học lẫn kỹ thuật: về khoa học,  được mở màn từ năm 1512 khi Copernicus công bố thực tại trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, và về kỹ thuật, được bắt đầu từ năm 1698 khi Thomas Suvery sản xuất máy chạy bằng hơi nước. Quyền hành hay quyền bính là tất cả những gì con người có thể hành sự trong trách nhiệm lãnh đạo của mình, đặc biệt về phương diện chính trị, được mở màn với chế độ dân chủ bằng cuộc cách mạng Pháp 1789, và với chế độ xã hội chủ nghĩa bằng cuộc cách mạng Nga năm 1917. Quyền lợi hay quyền hạn là tất cả những gì con người có thể thừa hưởng theo bản tính bẩm sinh là người của mình, đặc biệt về phương diện xã hội, được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh nhân quyền đầu tiên ở Hoa Kỳ chống lại chế độ thuộc địa để giành độc lập vào năm 1776, nhất là đã đạt đến tột đỉnh của nó nơi bản Hiến Chương Nhân Quyền 1948 của Liên Hiệp Quốc sau Thế Chiến Thứ Hai, vào cuối năm 1948.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, càng tân tiến con người càng đi đến chỗ bị khủng hoảng về quyền lực, quyền hành và quyền hạn của mình, qua thái độ con người tỏ ra tự phụ, tự mãn và tự nhiên thái qúa. Trước hết, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra tự phụ về quyền lực nơi các khám phá khoa học và phát minh kỹ thuật của mình, khi gạt Đấng Tạo Hóa ra ngoài bằng chủ nghĩa duy lý (rationalism hoặc idealism) hay duy vật (materialism hoặc communism). Sau nữa, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra tự mãn khi lấy quyền hành chính trị để giải quyết mọi sự như ý riêng của mình theo trào lưu tục hóa (secularism) và thực dụng (consequentialism), bằng cách ban bố các khoản luật phi nhân bản phản luân thường đạo lý làm người. Sau hết, con người tân tiến bị khủng hoảng ở chỗ tỏ ra sống tự nhiên theo khuynh hướng hưởng thụ (consumerism) và buông thả (nihilism), bất xứng với phẩm vị làm người.

 

Như thế, thực tế hiện lên cho thấy hết sức rõ ràng “bộ mặt trái đất” ở vào thời điểm Mùa Đông Lịch Sử (xin xem bài mang nhan đề này trước đây) ngay trước ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô giáo này đã hoàn toàn bị méo dạng, đã thực sự bị biến dạng, thậm chí đã trở thành quái dạng nữa là đàng khác. “Bộ mặt trái đất” hiện nay không méo dạng là gì, với chủ thuyết duy nhân bản (secular humanism), một chủ trương tôn sùng con người hơn cả Đấng đã dựng nên con người? “Bộ mặt trái đất” hiện nay cũng không biến dạng là gì, với khuynh hướng luân lý tương đối (moral/ethical relativism), một khuynh hướng biến dữ thành quyền lợi theo chủ quan phi chân lý của mình?? “Bộ mặt trái đất” hiện nay thậm chí còn trở thành quái dạng nữa, với những luật lệ phi nhân bản, phản luân thường đạo lý làm người, như luật cho phép phá thai, hợp thức hôn nhân đồng tính luyến ái v.v.???

Để có thể nhìn thẳng và nhìn kỹ “bộ mặt trái đất” đã bị méo dạng, biến dạng và quái dạng này, chúng ta hãy lắng nghe Vị Chủ Chiên Tối Cao của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ đã chia sẻ nhận định của một người nhìn từ trên cao xuống như ngài, (tất nhiên sẽ là cái nhìn tổng quát, rõ hơn và chính xác hơn những nhận định của người ở dưới và ở trong cuộc nên dễ bị chi phối lệch lạc như chúng ta). Cái nhìn của ngài cho chúng ta thấy chẳng những căn nguyên sâu xa của một thứ văn hóa ngài đã đặt tên cho nó là “văn hóa tử vong”, mà còn cả cách thức để cải tiến nó, nhất là đường lối để giải cứu loài người khỏi “văn hóa chết chóc” vô cùng nguy hại này hủy diệt nữa.

 

Bộ Mặt Trái Đất cần Truyền Bá Phúc Âm

 

 

Trước hết, về căn nguyên của một trào lưu văn hóa được gọi là “văn hóa tử vong”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vào ngày 27-6-1998, đã chia sẻ với các vị giám mục Hoa Kỳ sang Rôma đợt 9 dịp ad limina của các ngài, như sau:

 

Chúng ta phải nhận diện cuộc khủng hoảng văn hóa về luân lý này như thế nào đây? Chúng ta có thể thoáng nhìn thấy giai đoạn đầu tiên của nó theo những gì Đức Hồng Y Gioan Henry Newman viết qua bức Thư gửi cho Duke Norfolk: “Trong thế kỷ này, (lương tâm) đã bị thay thế bởi cái giả tạo, cái giả tạo chưa hề có ở 18 thế kỷ trước đó và nếu có chăng nữa cũng không thể nào lẫn lộn với nó. Đó là quyền tự ý (self-will). Những gì xẩy ra đúng ở thế kỷ 19 của đức hồng y Newman thì càng đúng hơn ở lúc này đây. Những quyền lực mạnh mẽ về luân lý nhấn mạnh rằng, các thứ quyền của lương tâm bị vi phạm bởi chính ý tưởng là có một thứ luật luân lý được ghi khắc nơi nhân tính của chúng ta, một thứ luật luân lý mà chúng ta có thể biết được bằng việc phản tỉnh về bản tính của mình cũng như về các việc làm của mình, và là một thứ luật áp đặt một số trách nhiệm trên chúng ta, vì chúng ta công nhận chúng có tính cách thắt buộc và chân thực phổ quát. Điều này thường được nói là một việc hủy hoại tự do. Thế nhưng ý niệm về ‘tự do’ thực sự ở đây là gì? Phải chăng tự do chỉ là việc làm theo ý mình – ‘tôi phải được phép làm điều này vì tôi muốn làm như vậy’? Hay phải chăng tự do là quyền làm những gì tôi phải làm, phải tự nguyện liên kết với điều tốt lành và chân thực (xem Bài Giảng tại Baltimore ngày 8-12-1995)?

 

“Quan niệm về tự do như là vấn đề tự quyết theo cá nhân hấp dẫn con người; được mớm cho bởi giới trí thức, bởi phương tiện truyền thông, bởi ngành lập pháp và tư pháp, quan niệm tự do này trở nên một lực lượng văn hóa mãnh liệt. Tuy nhiên, cuối cùng nó hủy diệt sự thiện riêng tư của cá nhân cũng như hủy diệt công ích của xã hội. Tự-do-là-tự-quyết, bởi việc nhấn mạnh một chiều đến ý muốn tự quyết của cá nhân như là nguyên lý cấu tạo duy nhất của đời sống công cộng, làm phân ly các mối giây ràng buộc giữa nam và nữ, giữa cha mẹ và con cái, giữa người mạnh và kẻ yếu, giữa đa số và thiểu số. Kết qủa gây ra là việc đổ vỡ nơi xã hội dân sự, và là một cuộc sống công cộng chỉ có các diễn viên còn lại đó  là việc tự quyết của cá nhân và chính quyền. Như thế kỷ 20 đã dạy cho chúng ta thấy, đóù là một liều thuốc mạnh cho bạo quyền bạo lực.

 

Cuộc khủng hoảng hiện nay về văn hóa luân lý, ở tận gốc rễ của mình, là một cuộc khủng hoảng về hiểu biết bản tính của con người…”

 

(tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 1-7-1998, trang 3, đoạn 2 và 3)

 

Bởi thế, để có thể cải tiến trào lưu “văn hóa tử vong” hết sức nguy hại này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong cùng một bài chia sẻ trên đây, đã nêu lên giải pháp như sau:   

“Trong việc giảng dạy chân lý về lương tâm và mối liên hệ nội tại của nó với chân lý luân lý, qúi huynh sẽ phải đương đầu với một trong những mãnh lực cả thể trong thế giới hiện đại. Thế nhưng, nhờ đó, qúi huynh mới đang cống hiến cho thế giới tân tiến này một việc phục vụ cao cả, vì qúi huynh sẽ nhắc nhở cho thế giới về nền tảng duy nhất có thể bảo tồn văn hóa tự do: đó là điều mà Các Vị Lập Quốc của qúi huynh gọi là các chân lý ‘minh nhiên’ (self-evident)…  

“Phẩm vị nội tại và những quyền lợi căn bản bất khả xâm phạm của chúng ta không phải là kết qủa của việc xã hội đồng ý chung (social convention): chúng có trước tất cả mọi cuộc trưng cầu dân ý xã hội nữa và còn cung cấp cho những qui định thấy được tính cách hợp lý của các cuộc trưng cầu dân ý ấy. Lịch sử của thế kỷ 20 này là một cảnh giác nghiêm nghị về các sự dữ gây ra bởi sự kiện con người bị suy giảm đến mức độ thành đồ vật bị quyền lực tham lam vị kỷ hay những luận lý ý hệ lạm dụng …  

“Việc sống còn của một nền quân chủ riêng biệt nào đó chẳng những tùy thuộc ở cơ cấu tổ chức của nó mà còn ở một lãnh vực lớn lao hơn nữa là tinh thần gợi hứng và thấm nhập đường lối của nó vào việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tương lai của một nền dân chủ thực sự lệ thuộc vào thứ văn hóa có khả năng làm nên những con người nam nữ sẵn sàng bảo vệ một số sự thật và giá trị.   

“Nếu không có một tiêu chuẩn khách quan để phán quyết giữa các ý niệm khác nhau về sự thiện chung cũng như riêng thì các thể chế dân chủ bị giảm xuống thành một cuộc tranh giành quyền lực sống sượng. Nếu lề luật thuộc hiến và lập pháp không dựa vào lề luật luân lý khách quan là các nguyên lý đệ nhất của công lý và bình đẳng, là bởi vì các nguyên lý này đã trở thành những vấn đề thuộc ý kiến riêng tư.  

Không khí của trào lưu luân lý tương đối thì không xứng hợp với nền dân chủ. Thứ văn hóa này không thể đáp ứng các vấn đề căn bản cho một cộng đồng chính trị dân chủ: ‘Tại sao tôi phải coi đồng hương của tôi bình đẳng như tôi?’; ‘Tại sao tôi phải bảo vệ quyền lợi của người khác?’ ‘Tại sao tôi phải hoạt động cho công ích?’. Nếu các chân lý luân lý không được công khai tuyên nhận như thế thì không thể nào có dân chủ được (xem Thông Điệp Rạng Ngời Chân Lý, đoạn 101)”. 

(cùng nguồn, đoạn 5 và 6)

 

Tuy nhiên, chỉ có một phương thế hiệu nghiệm có thể chắc chắn cứu vãn loài người khỏi bị hủy hoại bởi luồng khí “văn hóa tử vong” vô cùng độc hại này, một phương thế làm cho Mùa Đông Lịch Sử tan biến trước Mùa Xuân Cứu Rỗi, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại vào ngày 19-6-1998, trong bài giảng tại Vương Cung Thánh Đường Chính Tòa Salzburg Nước Aùo, như sau:
 

 “’Người dọn bàn ăn cho tôi trước mặt đối phương tôi’ (Ps.23/22:5). Cho dù không có những cuộc bắt bớ dữ dội, thì công việc làm chứng nhân như thành phần Kitô hữu cũng không phải bao giờ cũng dễ dàng. Họ thường đụng độ với tình trạng khô đạo đông đảo là tình trạng khó khăn cũng không thua gì tình trạng thù ghét. Bởi thế mới xẩy ra tình trạng linh mục và các cộng tác viên của các vị dọn bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, thế nhưng lại thất vọng khi thấy rằng số khách dự tiệc chấp nhận lời mời mỗi ngày một ít đi. Bàn tiệc lợi lộc và khuynh hướng thụ hưởng lại có vẻ hấp dẫn hơn. Đó là lý do tại sao hiện nay có nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu. Các hình thức phổ quát diễn đạt đạo đức thông dụng vẫn còn, tuy nhiên lại thiếu mất căn bản xác tín minh tường. Bởi thế chúng bị đe dọa bị cuốn đi theo giòng tục hóa đang dâng lên. Tình trạng dửng dưng đối với gia sản Kitô giáo thì nguy hại cũng giống như bị hận thù ghen ghét ra mặt vậy.  

Chỉ có việc tân phúc âm hóa mới bảo đảm được việc đào sâu vào một đức tin tinh tuyền và vững chắc, một đức tin có thể biến các truyền thống lưu tồn thành một quyền lực giải thoát”. 

(tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 1-7-1998, trang 8, đoạn 5)

 

Như thế, việc Giáo Hội truyền bá phúc âm đây chính là việc thực tế nhất Giáo Hội “xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt trái đất”, tức là canh tân con người là chính “bộ mặt trái đất”, là “bộ mặt” của “muôn vật hữu hình”, hay là phúc âm hóa văn hóa làm nên bộ mặt con người cũng vậy. Một khi con người “làm chủ trái đất” được canh tân, hay văn hóa là bộ mặt của con người được phúc âm hóa, thì chắc chắn “bộ mặt trái đất” sẽ được canh tân. Bởi vì:

 

“Toàn thể tạo vật ngong ngóng trông đợi việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Vì thế giới tạo vật bị lụy thuộc vào tình trạng hư hoại, không phải tự chúng muốn, mà bởi Đấng bắt chúng phải chịu với niềm hy vọng tất cả tạo vật sẽ được giải thoát khỏi số phận hư vong để thông phần tự do và vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm.8:19-21).

 

Đúng thế, sau khi phục sinh, Chúa Kitô “được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt.28:18) chẳng những sai các môn đệ của mình “đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân nước” (Mt.28:19), mà còn “đi khắp thế giới để công bố Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật” (Mk.16:15) nữa. Vẫn biết Chúa Kitô phục sinh “đã từ Cha sai Thánh Thần đến” (Jn.15:26) với Giáo Hội để “canh tân bộ mặt trái đất” bằng việc Giáo Hội truyền bá phúc âm. Thế nhưng, chính Người, “Đấng ở trên ngai” (Rev.21:5), Đấng “là nguyên thủy và là cùng đích, đã chết nhưng vẫn sống muôn đời” (Rev.1:17-18), mới là Đấng “canh tân lại tất cả” (Rev.21:5), dù việc Giáo Hội truyền bá phúc âm chưa hoàn tất hay chưa đi đến đâu theo chiều hướng mong ước của loài người, đúng như Người ngầm tiên báo, “trước khi các con đi khắp Israel thì Con Người đã đến” (Mt.10:23).

 

Phải, Thời Điểm Hồng Ân Năm Thánh 2000 chẳng những là khởi điểm cho Mùa Xuân Cứu Rỗi mà còn là chính Mùa Gặt Nước Trời, một mùa gặt hái những tâm hồn không thể tìm thấy chân lý và chân phúc nơi “văn hóa tử vong” đã quay trở về với “Đấng Cứu Tinh Nhân Trần” (Redemptor Hominis) là “đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Jn.14:6): “hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn là một” (Heb.13:8)?

 

 

(Bài viết kết sách của người soạn tập sách này đã được phổ biến trên hai nguyệt san

Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu số 201-202, số chủ đề “Thần Học Môi Sinh”, tháng 7&8/1999,

và Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu, tháng  8/1999)

 

 

Cùng Mẹ “ngợi khen” Chúa

Tổng Giáo Phận Los Angeles Lễ Thánh Phêrô Phaolô 29/6/1999

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL